Virus respiratoire syncytial gây viêm tiểu phế quản.
Trong đó viêm tiểu phế quản (VTPQ) là bệnh thường gặp, có thể dẫn đến những hậu quả nặng nề nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời. Theo thống kê, tử vong nhiễm khuẩn hô hấp cấp đứng hàng thứ 5 trong các bệnh lý ở bé.
Virus - 'thủ phạm' chínhBé bị viêm tiểu phế quản thường là do các virus, đứng hàng đầu là virus hợp bào hô hấp (virus Respiratoire Syncytial viết tắt là VRS), chiếm 30-50% các trường hợp mắc bệnh. Virus này có 2 điểm đặc biệt: có khả năng lây lan rất mạnh nên bệnh có khả năng xảy ra thành dịch; người lớn, bé lớn cũng có thể bị nhiễm virus hợp bào nhưng biểu hiện thường nhẹ, chỉ như cảm ho thông thường. Nếu bé dưới 2 tuổi bị lây nhiễm có thể biểu hiện dưới dạng nặng là VTPQ.
Virus cúm và á cúm cũng gây bệnh cho khoảng 25% số bé bị viêm tiểu phế quản. Ngoài ra phải kể đến Adenovirus với 10% số mắc.
Nếu bé sống trong vùng có dịch cúm hay viêm đường hô hấp trên (do virus hợp bào) thì tỷ lệ bị lây nhiễm rất cao do sức đề kháng ở cơ thể bé còn quá yếu, nhất là bé tuổi bú mẹ mà không được bú đầy đủ sữa mẹ. Những bé từng bị ốm do nhiễm virus trước đó (như viêm mũi họng, viêm amidan, viêm VA…) đều có nguy cơ dễ nhiễm bệnh nếu không được chăm sóc tốt.
Các trường hợp bé bị bệnh tim bẩm sinh, sống trong môi trường hút thuốc lá thụ động, bị bệnh phổi bẩm sinh hay bị suy giảm miễn dịch đều có nguy cơ cao mắc phải VTPQ.
Biểu hiện khi bé bị VTPQVTPQ là bệnh hay gặp ở bé nhũ nhi, nhất là bé 3-6 tháng tuổi. Khi mắc bệnh, các phế quản nhỏ này bị viêm, sưng phù, tiết nhiều dịch làm cho đường thở của bé bị chít hẹp thậm chí tắc nghẽn. Các bậc cha mẹ không được chủ quan khi thấy bé có những dấu hiệu như ho, chảy nước mũi trong, sốt vừa hoặc sốt cao. Sau từ 3-5 ngày, bé ho ngày một nhiều, xuất hiện thở khó, thở rít. Những trường hợp nặng thì tím tái, thậm chí ngừng thở.
Những bé đến viện khi thăm khám thường thấy nhịp thở nhanh, sốt vừa, xuất hiện các cơn co kéo hô hấp, lồng ngực bị rút lõm, bé thở rên. Tiếng thở có thể nghe ran rít, ran ngáy, thông khí phổi kém. Sau đó, bé ho nhiều hơn kèm khò khè và có thể bị khó thở (thở nhanh hơn, thở co kéo lồng ngực). Nặng hơn nữa bé có thể bỏ bú, tím tái. Bệnh có triệu chứng tương tự hen suyễn. Thông thường bé sẽ khò khè kéo dài khoảng 7 ngày, ho giảm dần trong khoảng 14 ngày rồi khỏi hẳn nếu được chăm sóc tốt. Tuy nhiên, trong khoảng 1/5 trường hợp, bệnh có thể kéo dài nhiều tuần lễ.
Cách theo dõi và chăm sócNếu bệnh nhẹ (không có biến chứng, không có yếu tố nguy cơ) thì có thể được chăm sóc tại nhà. Tiếp tục cho bé bú hay ăn uống đầy đủ. Cần cho bé uống nhiều nước để tránh thiếu nước. Cần làm thông thoáng mũi cho bé để giúp bé dễ thở hơn và bú tốt hơn. Có thể nhỏ mũi với 2-3 giọt nước muối sinh lý sau đó làm sạch mũi cho bé. Cho bé dùng thuốc đúng như chỉ dẫn của thầy thuốc. Tránh khói thuốc lá vì có thể làm bệnh của bé nặng hơn và dễ bị hen sau này. Cần khám lại đúng hẹn của bác sĩ.
Khi bé có dấu hiệu nặng (như khó thở, bú kém, tím tái, có biến chứng) cần cho bé nhập viện để điều trị. Đối với các thể thông thường (không có suy hô hấp) thì ngay khi vào viện các bác sĩ sẽ tiến hành hút thông đường thở, giải phóng các chất xuất tiết. Dùng khí dung ẩm thuốc giãn phế quản có tác dụng nhanh (như ventolin, bricanyl, salbutamol). Kết hợp với lý liệu pháp hô hấp, vỗ rung, hút đờm.
Những bé sốt cao, nôn, thở nhanh phải bù đủ dịch và điện giải theo nhu cầu cơ thể bé. Cần cho bé dinh dưỡng đủ chất và cân nhắc cẩn thận trước khi sử dụng kháng sinh.
Đối với những trường hợp nặng có suy hô hấp thì phải cho thở ôxy, hút thông đường hô hấp trên, dùng thuốc giãn phế quản đường khí dung ẩm, truyền nước, điện giải theo nhu cầu cơ thể bù lượng thiếu hụt. Nếu những biện pháp trên không cải thiện tình trạng suy hô hấp thì phải tiến hành đặt nội khí quản và các biện pháp hô hấp hỗ trợ khác. Chỉ sử dụng kháng sinh khi có biểu hiện viêm nhiễm thứ phát, không nên dùng steriod cho bé.
Phòng ngừa hiệu quảĐể phòng bệnh cho bé, mẹ hãy cho bé bú sữa mẹ đến 2 tuổi; không để bé bị lạnh, giữ cho môi trường sống của bé được trong lành. Những bé bị các bệnh tim, phổi bẩm sinh càng đặc biệt lưu ý vì dễ mắc bệnh và tiến triển xấu.
Cảnh giác với biến chứng do VTPQBiến chứng thường gặp của bệnh là suy hô hấp, viêm phổi (do dễ bị bội nhiễm), xẹp phổi, viêm tai giữa. Cần lưu ý là bệnh có thể sẽ nặng hơn, kéo dài hơn, nhiều biến chứng hơn và tử vong cũng cao hơn trong các trường hợp sau: bé dưới 3 tháng tuổi, bé sinh non - nhẹ cân, bé suy dinh dưỡng nặng, bé có sẵn bệnh tim, phổi, suy giảm miễn dịch. Ðây là những bé có yếu tố nguy cơ cần được cho nhập viện sớm khi bị VTPQ.
TẠP CHÍ GIA ĐÌNH -