Với những hậu quả về thể chất và tinh thần đang ngày càng gia tăng cho thế hệ tương lai, phòng chống bệnh học đường là một vấn đề cấp bách cần sự quan tâm của toàn xã hội.
Cận thị
Cận thị là loại bệnh học đường hay gặp nhất và có xu hướng ngày càng gia tăng. Bình thường, hình ảnh của vật khi qua hệ thống quang học của mắt sẽ hội tụ đúng trên võng mạc giúp chúng ta nhìn rõ. Khi hệ thống quang học của mắt bị trục trặc dẫn đến hình ảnh của vật nằm ở trước võng mạc dẫn đến nhìn mờ.
Loại cận thị học đường là loại cận thị xuất hiện do nhìn gần quá lâu, thủy tinh thể phải phồng lên làm tăng độ hội tụ của mắt. Vì vậy phải đưa vật vào gần sát mắt mới nhìn được rõ. Loại cận thị này thường xuất hiện ở lứa tuổi đi học, xuất hiện càng sớm thì tiến triển càng nhanh và nặng. Nguyên nhân của cận thị học đường là do trẻ nhìn gần liên tục do trong phòng học không đủ ánh sáng, do thói quen, do ngồi quá lâu, quá nhiều trước màn hình máy tính, kích thước bàn ghế không tương xứng (như ghế quá thấp, bàn lại cao), do bàn ghế không phù hợp lứa tuổi.
Cận thị học đường đang ngày càng gia tăng (Ảnh: Internet)
Các dấu hiệu của chứng cận thị học đường thường dễ thấy như trẻ có xu hướng ghé sát sách vở khi học tập, hay kêu đau mỏi mắt, nhìn mờ, hay nheo mắt, nghiêng đầu khi nhìn, không thích tham gia những hoạt động cần phải nhìn xa như đá bóng, cầu lông. Trẻ bị nặng có thể bị lác mắt kèm theo.
Cong vẹo cột sống
Tật cong vẹo cột sống chiếm tỷ lệ gặp khoảng 25% ở học sinh Việt Nam. Ở trẻ em, cột sống còn mềm mại, độ cong cũng nhỏ hơn so với người lớn. Nếu ngồi sai tư thế lâu như cúi gập, ưỡn, vẹo sang phải hoặc trái sẽ dẫn đến cong lưng; vẹo lưng (ở đoạn cột sống ngực); ưỡn lưng do đoạn cột sống thắt lưng ưỡn ra trước.
Nguyên nhân của cong vẹo cột sống là do kích thước bàn ghế không phù hợp (quá cao hoặc quá thấp), do thói quen tư thế ngồi không đúng, do phải mang vác nặng (ví dụ như mang cặp sách 5 - 6kg) của học sinh tiểu học, ngồi quá lâu để học bài, xem ti vi, máy tính…
Cong vẹo cột sống làm cho cơ thể bị lệch trọng tâm gây khó khăn cho các hoạt động thể lực, gây biến dạng lồng ngực nên dễ mắc bệnh giảm thông khí phổi hạn chế, ảnh hưởng đến sự phát triển của khung chậu, và cong vẹo cột sống làm người bệnh mặc cảm về hình thức, khó hòa nhập với các hoạt động xã hội. Hệ quả của căn bệnh này sẽ gây lệch trọng tâm cơ thể, khiến học sinh ngồi học không được ngay ngắn, gây cản trở cho việc đọc, viết và làm căng thẳng thị giác, cản trở cho việc tập trung trí não. Cong, vẹo cột sống còn ảnh hưởng đến hoạt động của tim, phổi, ảnh hưởng đến sự phát triển của khung chậu, do đó ảnh hưởng đến việc sinh nở của học sinh nữ khi đến tuổi làm mẹ sau này.
Tư thế ngồi học sai gây cong vẹo cột sống
Rối loạn tâm thần
Chứng rối loạn tâm thần ở lứa tuổi học đường thời gian gần đây gây nhiều quan tâm của cả gia đình, nhà trường và xã hội trên hai phương diện về mức độ tăng nhanh và tính chất nghiêm trọng của vấn đề. Theo khảo sát gần đây, 19,5% số học sinh có biểu hiện rối loạn tâm thần (chủ yếu là rối loạn cảm xúc và hành vi) ở lứa tuổi học đường và tỷ lệ này ngày càng tăng, đặc biệt là ở các thành phố lớn nơi trẻ em phải chịu nhiều áp lực trong việc học tập.
Biểu hiện của rối loạn tâm thần ở lứa tuổi học đường ở nhiều mức độ như mất tập trung, căng thẳng, đau đầu chóng mặt, khó kiểm soát hành vi, nặng hơn nữa thì có biểu hiện trầm cảm, thậm chí hoang tưởng tự sát. Nguyên nhân của hiện tượng này có lẽ do khối lượng học tập quá tải, học thêm, bồi dưỡng ngoài giờ liên miên, phân bố chưa hợp lý trong các môn học, phụ huynh kỳ vọng ở con em quá nhiều nên tạo một tâm lý nặng nề cho trẻ, điều kiện vệ sinh, chăm sóc sức khỏe trong học tập nhiều nơi chưa đảm bảo, thời gian học chiếm hết thời gian vui chơi giải trí… Khiến cho các em luôn trong tình trạng làm việc liên tục, đầu óc và cơ thể không có thời gian nghỉ ngơi.
Một số giải pháp
Thay đổi thái độ và hành vi: Trẻ em cần được định hướng, được cung cấp những kiến thức tối thiểu về các loại bệnh học đường và các phòng chống, được tạo điều kiện về mọi mặt để đảm bảo một sức khỏe tốt cả về thể chất và tâm thần.
Môi trường học tập đảm bảo: Chúng ta phải đảm bảo cho môi trường giáo dục, bao gồm cả khối lượng kiến thức, phương pháp tổ chức thực hiện sao cho hiệu quả và cơ sở vật chất đồng bộ, hiện đại, đúng tiêu chuẩn, phù hợp lứa tuổi.
Theo TS. BS Vũ Đức Định (Sức khỏe & Đời sống)