Thức ngon lắm món
Có rất nhiều món ăn được chế biến từ khổ qua: nấu với tôm, thịt heo nạc; khổ qua ninh xương; hấp với thịt băm; muối dưa; làm nộm; xào, kho, ăn sống làm món ăn bổ mát, chống viêm nhiệt. Khổ qua còn được chế thành trà uống rất tốt. Người ta đã biết thành phần dinh dưỡng của trái khổ qua tính theo g%: protid 0,9, glucid 3, cellulose 1,1 và theo mg%: calcium 18, phosphor 29, sắt 0,6, caroten 40, vitamin B1 0,07 và vitamin C 22. Trong trái khổ qua có một glycosid đắng gọi là momordicin và các vitamin B1, C, các acid amin như adenin, betain… Hạt chứa một chất dầu và một chất đắng.
Khổ qua tên khoa học Momordica charantia L., thuộc họ bầu bí (Cucurbitaceae) (Ảnh: Internet)
Thuốc hay nhiều vị
Hải Thượng Lãn Ông viết trong Lĩnh Nam bản thảo: “Khổ qua tục gọi quả mướp đắng. Hột nó ích khí, làm dương tráng. Bổ hư lao, mát tim rất hay. Khổ hàn chữa tạng nhiệt, mắt sáng”. Khi còn xanh, khổ qua có tính giải nhiệt, tiêu đàm, sáng mắt, mát tim, nhuận tràng, bổ thận, nuôi can huyết, bớt mệt mỏi, trừ nhiệt độc, lợi tiểu, làm bớt đau nhức xương. Khi chín, nó có tính bổ thận, kiện tỳ, dưỡng huyết.
Nói chung, khổ qua là thuốc bổ máu, giải nhiệt, giảm ho, trị giun, nhuận tràng, sát trùng và hạ đái đường. Dùng để tắm thì đỡ nhọt sởi, xát ngoài da cho trẻ em thì trừ rôm sảy và trị chốc đầu. Ở Trung Quốc, người ta dùng khổ qua trị đột quỵ tim, bệnh sốt, khô miệng, viêm hầu, bệnh ecpet mảng tròn; liều dùng là 15 – 30g, dạng thuốc sắc. Hạt khổ qua ngoài bổ dương, tráng khí còn dùng chữa ho, viêm họng (nhai hạt nuốt nước hoặc mài cho đặc, lấy nước chưng hoặc hấp cơm uống, hoặc nhai ngậm với muối).
Hoa, lá và rễ khổ qua đều có tác dụng trị lỵ, nhất là lỵ amip: dùng rễ nấu nước uống; mỗi lần 30g rễ sắc uống với đường trắng (cũng dùng trị tiêu chảy). Trường hợp đinh nhọt và bệnh viêm mủ da, dùng 5 – 10g lá tươi (hoặc dùng trái) nghiền ra, thêm nước làm thuốc đắp ngoài, đồng thời ăn trái tươi.