Tình trạng này thường gặp ở trẻ nhỏ, trẻ sinh non, không được bú mẹ, trẻ suy dinh dưỡng thể còi, trẻ nhiễm trùng và ký sinh trùng. Phụ nữ mang thai và người cao tuổi cũng hay thiếu kẽm.
Vai trò của kẽm trong cơ thể
Kẽm tham gia rất nhiều trong thành phần các enzyme, giúp tăng tổng hợp protein, phân chia tế bào, thúc đẩy sự tăng trưởng, tăng cảm giác ngon miệng nên rất quan trọng đối với trẻ em. Kẽm kích thích hoạt động của khoảng 100 enzyme, là những chất xúc tác phản ứng sinh hoá trong cơ thể. Kẽm giúp phát triển và duy trì hoạt động hiệu quả của hệ thống miễn dịch, làm vết thương mau lành, giúp bảo vệ vị giác, khứu giác và cần thiết cho sự tổng hợp DNA. Thiếu kẽm, sự chuyển hoá của các tế bào vị giác bị ảnh hưởng, gây biếng ăn do rối loạn vị giác.
Nếu thiếu kẽm, sự phân chia tế bào khó xảy ra nên trẻ thường biếng ăn, còi cọc. Ảnh. Lê Kiên
Bổ sung kẽm cho trẻ bị suy dinh dưỡng thấp còi (kém phát triển về chiều cao), có tác dụng phục hồi rõ rệt cả về tốc độ phát triển chiều cao và cân nặng, làm tăng nồng độ hormon IGF-1, một yếu tố tăng trưởng quan trọng của cơ thể. Các nghiên cứu trên động vật cho thấy, có hiện tượng gián đoạn quá trình nhân đôi của các tế bào phôi trong thời kỳ bào thai, dẫn đến khiếm khuyết về sự tăng trưởng của bào thai và tỷ lệ quái thai cao ở các động vật chịu chế độ ăn thiếu kẽm trong thời kỳ mang thai. Theo nghiên cứu của tác giả Castillo – Duran, việc bổ sung kẽm cho trẻ sinh nhẹ cân cho thấy có sự tăng trưởng tốt về chiều cao và cả cân nặng trong sáu tháng đầu đời.
Không chỉ có tác dụng với thể chất, tình trạng thiếu kẽm còn ảnh hưởng xấu đến tinh thần, làm dễ nổi cáu. Nguyên nhân do kẽm giúp vận chuyển canxi vào não, mà canxi là một trong những chất quan trọng giúp ổn định thần kinh.
Dấu hiệu trẻ thiếu kẽm
Dấu hiệu thường thấy là ăn không ngon, vị giác bất thường, rụng tóc, tiêu chảy kéo dài, thương tổn ở da và mắt, chậm lớn, cơ quan sinh dục chậm trưởng thành và bất lực. Thiếu kẽm cũng gây sụt cân, thiếu máu, chậm lành vết thương và kém minh mẫn. Một số người xơ gan bị thiếu kẽm do không giữ được kẽm.
Dấu hiệu sinh hoá của tình trạng thiếu kẽm bao gồm giảm nồng độ kẽm trong huyết thanh (<70 mcg/dl hay <10,7 micromol/L), giảm alkaline phosphatase, alcohol dehydrogenase trong võng mạc (mắt kém về đêm), giảm testosterone trong huyết tương và suy giảm chức năng hoạt động của tế bào lymphô T, giảm tổng hợp chất tạo keo (collagen) từ đó vết thương không liền được, và giảm hoạt động của RNA polymerase trong nhiều mô.
Nhu cầu hấp thu
Đã có nhiều công trình nghiên cứu chứng minh kẽm là một vi khoáng có vai trò quan trọng đặc biệt cho phát triển chiều cao, cơ bắp, thần kinh và miễn dịch của trẻ những năm đầu đời.
Nhu cầu kẽm ở trẻ dưới một tuổi vào khoảng 5mg/ngày, ở trẻ 1 – 10 tuổi khoảng 10mg/ngày, thanh thiếu niên và người trưởng thành khoảng 15mg/ngày đối với nam và 12mg/ngày đối với nữ, phụ nữ mang thai cần 15mg/ngày, cho con bú sáu tháng đầu cần 19mg và cho con bú lúc 6 – 12 tháng cần 16mg kẽm mỗi ngày.
Lượng kẽm được hấp thu khoảng 5mg/ngày, chủ yếu tại tá và hỗng tràng, một ít tại hồi tràng. Trong điều kiện chuẩn, tỷ lệ hấp thu khoảng 33%. Giảm bài tiết dịch vị ở dạ dày, nhiều sắt vô cơ, phytate (có nhiều trong ngũ cốc thô, đậu nành và các thực phẩm giàu chất xơ) có thể làm giảm hấp thu kẽm. Canxi làm tăng bài tiết kẽm, không nên uống cùng lúc với kẽm. Để tăng hấp thu kẽm, nên bổ sung cùng với thức ăn giàu vitamin C.
Thức ăn nhiều kẽm là: tôm đồng, lươn, hàu, sò, cá chép, gan heo, sữa bột tách béo, thịt bò, lòng đỏ trứng, cùi dừa già, các hạt có dầu, khoai lang, ổi, rau mùi tàu, củ cải… Trẻ nhũ nhi nên cố gắng cho bú mẹ vì kẽm trong sữa mẹ dễ hấp thu hơn nhiều so với sữa bò. Lượng kẽm trong sữa mẹ ở tháng đầu tiên là cao nhất (2 – 3 mg/lít), sau ba tháng thì giảm còn 0,9mg/l. Lượng kẽm mà người mẹ mất qua sữa trong ba tháng đầu ước tính 1,4mg/ngày. Do đó, người mẹ cần ăn nhiều thực phẩm giàu kẽm để có đủ cho cả hai mẹ con.
|
BS.CK2. Nguyễn Thị Thu Hậu (Sài gòn tiếp thị)